VẮC XIN HEXAXIM : PHÒNG 6 BỆNH (BẠCH HẦU, HO GÀ, UỐN VÁN, BẠI LIỆT, HIB VÀ VIÊM GAN B)

Thứ năm - 02/10/2025 23:54
Vắc xin phòng 6 bệnh, hay còn gọi là vắc xin 6 trong 1, là vắc xin kết hợp giúp phòng ngừa 6 bệnh nguy hiểm bao gồm: bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm gan B, và các bệnh do vi khuẩn Hib (như viêm phổi, viêm màng não). Việc tiêm vắc xin 6 trong 1 giúp giảm số lượng mũi tiêm, tiết kiệm thời gian và giảm thiểu số lần đi tiêm cho trẻ.
VẮC XIN HEXAXIM : PHÒNG 6 BỆNH (BẠCH HẦU, HO GÀ, UỐN VÁN, BẠI LIỆT, HIB VÀ VIÊM GAN B)
I. Tổng quan
1. Bạch hầu
Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Bệnh bạch hầu được lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sữa tươi cũng có thể là phương tiện lây truyền bệnh bạch hầu.
Nếu không điều trị kịp thời, bệnh dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như suy đa cơ quan, viêm cơ tim, tổn thương thần kinh, liệt và tử vong do trụy tim mạch.
Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vắc xin bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) thì bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là ở các thành phố có mật độ dân cư cao. Bệnh xuất hiện nhiều vào các tháng 8, 9, 10 trong năm. Do thực hiện tốt việc tiêm vắc xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000.
2. Ho gà
Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp gây ra bởi vi khuẩn Bordetella Pertussis xâm nhập vào đường hô hấp, thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Khởi đầu của bệnh có thể không sốt hoặc sốt nhẹ, có viêm long đường hô hấp trên, mệt mỏi, chán ăn và ho. Cơn ho ngày càng nặng và trở thành cơn ho kịch phát trong 1-2 tuần, kéo dài 1-2 tháng hoặc lâu hơn. Cơn ho gà rất đặc trưng, thể hiện trẻ ho rũ rượi không thể kìm hãm được, sau đó là giai đoạn thở rít như tiếng gà gáy. Cuối cơn ho thường chảy nhiều đờm dãi trong suốt và sau đó là nôn.
Bệnh lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường hô hấp có các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng bệnh nhân khi ho, hắt hơi. Tính lây truyền rất cao ngay sau khi bị phơi nhiễm với giọt nước miếng của bệnh nhân, nhất là đối với những người sinh hoạt trong cùng một không gian khép kín lâu dài như hộ gia đình, trường học… Tỷ lệ mắc bệnh trong số những người trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân trong cùng gia đình từ 90-100%. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hằng năm có khoảng 30-50 triệu người mắc bệnh ho gà, và có đến 300.000 người tử vong. Trong đó phần lớn các trường hợp tử vong đều là trẻ nhỏ, đặc biệt là ở trẻ từ 0-12 tháng tuổi.
Nếu phát hiện các dấu hiệu bệnh ho gà và điều trị sớm, bệnh ho gà thường có đáp ứng tốt và được kiểm soát hoàn toàn chỉ sau 5 ngày. Ngược lại, nếu việc điều trị diễn ra chậm trễ sẽ khiến bệnh chuyển biến nặng, gây ra những biến chứng nguy hiểm, suy hô hấp và thậm chí  tử vong.
3. Uốn ván
Bệnh uốn ván là bệnh nhiễm trùng cấp tính nặng, do ngoại độc tố protein mạnh của trực khuẩn Clostridium tetani phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Khi bị nhiễm khuẩn, độc tố protein tetanospasmin được tiết ra và ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, gây tổn thương não và hệ thần kinh trung ương, dẫn đến cứng cơ và có thể gây tử vong nhanh.
Uốn ván được đặc trưng bởi hiện tượng tăng trương lực cơ, các cơn co cơ cứng với tỷ lệ tử vong của bệnh uốn ván rất cao, dao động từ 25-90%, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh với 95%. Ở Việt Nam, bệnh uốn ván xuất hiện tản phát ở khắp các tỉnh trong cả nước. Chương trình loại trừ UVSS được triển khai từ năm 1992. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tỷ lệ mắc UVSS trung bình năm của cả nước là 0,13/1.000 trẻ đẻ sống. Từ năm 2005, Việt Nam đã loại trừ bệnh UVSS theo quy mô huyện với tỷ lệ mắc UVSS dưới 1/1.000 trẻ đẻ sống.
Nguồn truyền nhiễm bệnh uốn ván là trực khẩn uốn ván tồn tại trong ruột của súc vật, nhất là trong ruột các đại gia súc ăn cỏ như ngựa, trâu, bò... kể cả người, tại đây vi khuẩn cư trú một cách bình thường không gây bệnh; nha bào uốn ván có thể tìm thấy trong đất và các đồ vật bị nhiễm phân súc vật hoặc phân người. Nha bào uốn ván có mặt ở mọi nơi trong môi trường tự nhiên và có thể gây nhiễm cho tất cả các loại vết thương.
4. Bại liệt
Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm vi rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi rút Polio tuýp 1, 2, 3 gây nên, trong đó tuýp 1 là nguyên nhân chính gây ra các vụ dịch bại liệt. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp.
Sau khi vào cơ thể qua đường tiêu hóa, virus có thể tấn công hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương tế bào thần kinh vận động ở tủy sống, dẫn đến liệt các chi, liệt cơ hô hấp và thậm chí tử vong. Bệnh bại liệt có thể gây tử vong hoặc để lại di chứng liệt và tàn tật suốt đời. Virus bại liệt có khả năng lây truyền, tạo thành dịch lớn nếu miễn dịch cộng đồng thấp. Từ năm 2000, Việt Nam đã không còn một bệnh nhân bại liệt nào do vi rút bại liệt hoang dại gây nên.
5. Bệnh viêm phổi, viêm màng não do vi khuẩn HIB
Viêm màng não mủ là hiện tượng của viêm của màng não do sự xâm lấn và tăng sinh của vi trùng trong dịch não tủy. Viêm màng não mủ, viêm phổi do vi khuẩn Hib (Haemophilus influenzae typ B) gây ra có thể dẫn đến nhiều biến chứng nhiễm trùng huyết, phù não, tràn dịch dưới màng cứng, phù phổi cấp, viêm màng ngoài tim, suy hô hấp dẫn đến tử vong, thậm chí tử vong nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách. Song, dù sống sót nhưng người bệnh vẫn có khả năng chịu nhiều di chứng lâu dài như điếc, co giật, yếu tay chân, mù lòa, rối loạn ngôn ngữ, giảm trí nhớ, cắt cụt chi do nhiễm trùng huyết. Trẻ càng nhỏ, nguy cơ mắc bệnh, biến chứng và tử vong càng cao.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2019, viêm phổi đã gây tử vong 740.180 trẻ em < 5 tuổi, khoảng 190.000 trẻ sơ sinh bị tử vong do viêm phổi trong tổng số đó. Năm 2015, viêm phổi chiếm 11% tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi tại Việt Nam và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ngoài giai đoạn sơ sinh. Với bệnh viêm màng não, khoảng 1 trong 6 người mắc tử vong (Theo WHO).
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng vi khuẩn Haemophilus influenzae (bao gồm Hib) đang có tỷ lệ kháng rất cao đối với nhiều loại kháng sinh thông thường.
6. Viêm gan B
Viêm gan B là bệnh truyền nhiễm do virus viêm gan B - HBV gây ra, gây nguy hiểm chủ yếu ở gan. Bệnh có thể lây qua 3 con đường cơ bản là đường máu, truyền từ mẹ sang con hoặc lây qua đường tình dục không an toàn. Bệnh nhân thường có dấu hiệu chán ăn, mệt mỏi, vàng da, vàng mắt. Đặc biệt, viêm gan B thường không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng, vì vậy đa phần khi được phát hiện thì bệnh đã ở vào giai đoạn nguy hiểm. Khoảng 85-90% người mắc bệnh trưởng thành có diễn biến cấp tính. Trẻ nhỏ lây trực tiếp từ mẹ bị viêm gan B có nguy cơ 90% ở thể mạn tính.
Theo kết quả mô hình ước tính gánh nặng bệnh tật do vi rút viêm gan B được Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện năm 2017, ước tính có khoảng 7,8 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính. Đây là nguyên nhân dẫn đến khoảng 80.000 trường hợp xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan và khoảng 40.000 trường hợp tử vong hàng năm và có xu hướng tiếp tục gia tăng.
II. Thông tin về vắc xin Hexaxim
1. Nhà sản xuất: Sanofi Pasteur (Pháp).
2. Chỉ định: Trẻ từ 2 tháng tuổi (có thể tiêm sớm lúc 6 tuần tuổi) đến lúc trẻ đạt 24 tháng tuổi.
3. Liều lượng và đường tiêm: 0,5 ml - tiêm bắp mặt trước ngoài của phần trên đùi và vùng cơ delta ở trẻ 15 tháng tuổi trở lên.
4. Lịch tiêm: 4 mũi
- Mũi 1: lần tiêm đầu tiên
- Mũi 2: 1 tháng sau mũi 1
- Mũi 3: 1 tháng sau mũi 2
- Mũi 4: 12 tháng sau mũi 3 (cách tối thiểu 6 tháng)
vắc xin 6 in 1
5. Chống chỉ định:
- Tiền sử trước đây bị phản ứng phản vệ sau khi tiêm Hexaxim.
- Quá mẫn với bất kì các thành phần nào của vắc-xin.
- Trẻ bị dị ứng với một trong các thành phần của vắc xin hay với vắc xin ho gà (vô bào hoặc nguyên bào), hay trước đây trẻ đã có phản ứng dị ứng sau khi tiêm vắc xin có chứa các chất tương tự.
- Trẻ có bệnh lý não không rõ nguyên nhân, xảy ra trong vòng 7 ngày sau khi tiêm 1 vắc xin chứa thành phần ho gà (vắc xin ho gà vô bào hay nguyên bào). Trong trường hợp này, nên ngừng tiêm vắc xin ho gà và có thể tiếp tục với quá trình tiêm chủng với các vắc xin Bạch hầu, Uốn ván, Viêm gan B, Bại liệt và Hib.
- Không nên tiêm vắc xin ho gà cho người có các rối loạn về thần kinh không kiểm soát cho đến khi bệnh được điều trị, bệnh ổn định và có lợi ích rõ ràng vượt trội nguy cơ.
6. Thận trọng:
- Nên hoãn tiêm Hexaxim cho các đối tượng đang sốt cao cấp tính, không chống chỉ định khi có biểu hiện nhiễm khuẩn nhẹ.
- Nên thận trọng cân nhắc quyết định có tiếp tục sử dụng vắc-xin chứa thành phần ho gà hay không nếu có bất kỳ một trong những biểu hiện sau:
+ Sốt cao ≥ 40 độ C trong vòng 48 giờ mà không do các nguyên nhân khác.
+ Suy sụp hoặc tình trạng giống sốc trong vòng 48 giờ sau tiêm.
+ Quấy khóc kéo dài ≥ 3 giờ, xuất hiện trong 48 giờ sau tiêm.
+ Co giật có hoặc không kèm theo sốt xảy ra trong vòng 3 ngày sau khi tiêm vắc xin.
- Nên thận trọng khi sử dụng vắc xin này cho những bệnh nhân đã biết quá mẫn với glutaraldehyde, neomycin, streptomycin và polymycin B.
- Trẻ bị co giật: Trẻ em có tiền sử co giật xảy ra trong vòng 2 đến 3 ngày sau khi tiêm vắc xin.
- Hội chứng Guillain-Barré hoặc viêm dây thần kinh cánh tay: Cần thận trọng đối với những người có tiền sử mắc hội chứng Guillain-Barré hoặc viêm dây thần kinh cánh tay sau khi tiêm vắc xin phòng ngừa bệnh uốn ván.
7. Tương tác thuốc:
- Hexaxim có thể dùng đồng thời với các vắc xin phế cầu cộng hợp, MenC cộng hợp, MenACWY cộng hợp, rotavirus, sởi, quai bị, rubella và thuỷ đậu.
- Không tiêm vắc xin Hexaxim cùng ngày với các loại vắc xin thủy đậu.
- Vắc xin Hexaxim không tiêm cùng ngày với các vắc xin có thành phần viêm gan B, nên cách 1 tháng.
8. Tác dụng phụ:
- Đau, đỏ, sưng tại chỗ được tiêm (từ 1-3 ngày), có thể nổi cục cứng (1-3 tuần sẽ tự khỏi).
- Trẻ sốt, quấy khóc, nôn, tiêu chảy, bú kém…
III. MỘT SỐ CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
1. Để đảm bảo an toàn tiêm chủng các bậc cha mẹ cần phải làm gì khi đưa con đi tiêm chủng?
Khi đưa trẻ đi tiêm chủng cần mang theo phiếu/sổ tiêm chủng cá nhân.
Chủ động thông báo cho cán bộ y tế về tình trạng sức khỏe của con mình như đang ốm, sốt, tiền sử dị ứng hay phản ứng mạnh với những lần tiêm chủng trước như sốt cao, quấy khóc kéo dài, sưng đau lan rộng tại vị trí tiêm hoăc có bất thường gì khác.
Yêu cầu các cán bộ y tế thông báo về các loại vắc xin tiêm chủng cho trẻ và hướng dẫn theo dõi, chăm sóc trẻ sau tiêm chủng.
Chủ động đề nghị cán bộ y tế kiểm tra sức khỏe của trẻ trước khi tiêm.
Đưa trẻ đến điểm tiêm chủng theo đúng thời gian, địa điểm đã được thông báo để đảm bảo điểm tiêm chủng không quá đông và cán bộ y tế thuận tiện thực hành tiêm chủng an toàn.
2. Các bà mẹ phải làm gì để có thể phát hiện sớm những phản ứng sau tiêm chủng?
Sau khi tiêm chủng trẻ cần phải ở lại 30 phút tại điểm tiêm chủng để được cán bộ y tế theo dõi và kịp thời xử trí nếu có những phản ứng bất thường xảy ra.
Theo dõi trẻ thường xuyên tại nhà trong vòng 1 ngày sau tiêm chủng về các dấu hiệu sau: toàn trạng, tinh thần, ăn ngủ, thở, nhiệt độ, phát ban, phản ứng tại chỗ tiêm.
3. Sau khi tiêm về nếu cháu bị sốt, quấy khóc thì tôi phải làm gì?
Sau tiêm chủng trẻ có thể có những biểu hiện như sốt nhẹ, đau tại chỗ tiêm, các bà mẹ cần chú ý đến trẻ hơn, cho trẻ bú nhiều hơn, cho bú khi trẻ thức, theo dõi nhiệt độ, không đắp bất cứ thứ gì lên vị trí tiêm.
Khi trẻ sốt, cần phải cặp nhiệt độ và theo dõi sát, dùng thuốc hạ sốt cho trẻ theo sự chỉ dẫn của cán bộ y tế. Nếu trẻ không đỡ cần đưa trẻ tới cơ sở y tế để được thăm khám, xử trí.
4. Những biểu hiện nào sau tiêm chủng là bất thường, khi nào cần đưa trẻ đến cơ sở y tế?
Cần đưa NGAY trẻ tới bệnh viện hoặc các cơ sở y tế nếu trẻ có các dấu hiệu bất thường sau tiêm chủng như sốt cao (>39°C), co giật, khóc thét, quấy khóc kéo dài, bú kém, bỏ bú, khó thở, tím tái, li bì, phát ban.... hoặc khi phản ứng thông thường kéo dài trên 1 ngày.
Nếu cha mẹ không yên tâm về những phản ứng của con sau khi tiêm chủng có thể trực tiếp đến gặp cán bộ y tế để được tư vấn cách theo dõi và chăm sóc trẻ.
5. Nên tiêm vắc xin 5in1 hay 6in1 cho trẻ? Điểm khác nhau giữa vắc xin 5in1 hay 6in1?
Vắc xin 6 trong 1 là loại vắc xin phối hợp, có khả năng phòng ngừa được 6 loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ nhỏ trong 1 mũi tiêm, bao gồm: bạch hầu, ho gà, bại liệt, uốn ván, viêm gan B và các bệnh viêm phổi, viêm màng não mủ do Hib. Hiện nay, tại các trung tâm tiêm chủng dịch vụ đang lưu hành 2 loại vắc xin 6 trong 1 là Infanrix Hexa của Bỉ và Hexaxim của Pháp.
Vắc xin 5 trong 1 chỉ phòng ngừa được 5 loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ nhỏ, gồm các bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt và các bệnh lý do vi khuẩn Haemophilus influenzae týp B (Hib) trong khi đó vắc xin 6in1 vượt trội hơn về phòng bệnh. Hiện nay, vắc xin 5 trong 1 có 2 loại là Pentaxim (Pháp) sử dụng tại các tiêm chủng dịch vụ và ComBE Five (Ấn Độ) hoặc SII nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) và được Nhà nước tài trợ (miễn phí) triển khai tiêm phòng ở các trạm y tế phường, xã.
Vì vậy, nếu tiêm vắc xin 6 trong 1, bố mẹ có thể phòng ngừa đủ 6 loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thường gặp, có khả năng gây tử vong cho con mà không cần phải tiêm bổ sung. Đối với trường hợp tiêm vắc xin 5 trong 1 Pentaxim, bố mẹ cần tiêm bổ sung thêm mũi viêm gan B, vắc xin 5 trong 1 ComBE Five bố mẹ nên cho con uống/tiêm thêm bại liệt để con có đầy đủ kháng thể phòng ngừa hiệu quả các bệnh nguy hiểm.
Bảng so sánh giữa vắc xin 5in1 và 6in1
  Vắc xin 5 trong 1 (ComBE Five) Vắc xin 6 trong 1 (Hexaxim)
Phòng bệnh 5 bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm gan B và các bệnh viêm phổi, viêm màng não mủ do H.Influenzae týp B (Hib). (Thành phần ho gà toàn bào) 6 bệnh: ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt, viêm gan B và các bệnh viêm phổi, viêm màng não mủ do H.Influenzae týp B (Hib). (Thành phần ho gà vô bào)
Xuất sứ Biological E. Limited - Ấn Độ GSK – Bỉ
Lịch tiêm 3 mũi cơ bản: lúc 2, 3, 4 tháng tuổi
Nhắc lại: 18 tháng
3 mũi cơ bản: lúc 2, 3, 4 tháng tuổi
Nhắc lại: 18 tháng
Ưu điểm - Được sử dụng rộng rãi trong TCMR (hoàn toàn miễn phí).
- Giúp trẻ phòng 5 bệnh nguy hiểm.
- Giúp trẻ phòng cùng lúc 6 bệnh, bổ sung thêm bại liệt.
- Giảm số mũi tiêm, thuận tiện cho trẻ và gia đình.
Hạn chế - Trẻ vẫn cần uống thêm vắc xin bại liệt (OPV) để phòng bệnh bại liệt - Chỉ có tại tiêm chủng dịch vụ, có tốn phí
Tác dụng phụ thường gặp Sốt nhẹ, đau, sưng đỏ chỗ tiêm, quấy khóc . Sốt nhẹ, đau, sưng đỏ chỗ tiêm, quấy khóc (Tương tự ComBE Five nhưng thường nhẹ hơn).

Hiện tại, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Đà Nẵng đang cung cấp vắc xin 6 trong 1 Hexaxim (xuất xứ Pháp) với mức giá 961.700 đồng/mũi (giá có thể thay đổi tùy thời điểm). Vắc xin được nhập khẩu chính ngạch từ các hãng sản xuất uy tín trên thế giới. Trung tâm đảm bảo dịch vụ tiêm chủng an toàn, chi phí hợp lý cùng đội ngũ cán bộ y tế nhiều kinh nghiệm, được đào tạo chuyên sâu, mang lại sự yên tâm và hài lòng cho khách hàng. Nếu bạn có thêm câu hỏi hoặc cần tư vấn chi tiết hơn, vui lòng liên hệ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Đà Nẵng hoặc gọi hotline 1900.988.975 - Ấn phím 1 hoặc 2./.
Giá vắc xin dịch vụ tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP Đà Nẵng tại: https://ksbtdanang.vn/services/tiem-chung.html 
Bs. Đặng Phước Sanh
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây